Từ ngày 01/01/2018, Luật Du lịch 2017 chính thức có hiệu lực thi hành. Theo đó, kinh doanh dịch vụ lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch.
Ưu điểm và nhược điểm của ủy thác đầu tư
Cũng giống như các loại hình đầu tư khác, ủy thác đầu tư cũng có những ưu, nhược điểm nhất định.
Lợi nhuận an toàn và ổn định: Khi đặt cạnh việc tự đầu tư thì ủy thác đầu tư mang đến lợi nhuận an toàn và ổn định hơn. Bởi vì, các hoạt động đầu tư đều được thực hiện bởi những chuyên gia có kinh nghiệm nên hạn chế được rủi ro.
Danh mục đầu tư đa dạng: Thông thường, nếu muốn đầu tư vào một lĩnh vực bạn sẽ phải chi ra một khoản vốn tương đối lớn. Trong khi đó, cùng với số tiền đó nếu ủy thác đầu tư cho các tổ chức tài chính thì họ có thể giúp bạn phân chia các danh mục đầu tư đa dạng hơn.
Tiện lợi, dễ dàng tiếp cận: Đây chính là điểm sáng của ủy thác đầu tư so với các loại hình khác. Bạn chỉ cần đưa tiền cho các tổ chức, doanh nghiệp để họ giúp bạn đầu tư thay vì dành thời gian nghiên cứu chuyên sâu.
Tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp có thể sử dụng vốn đi đầu tư nhưng vẫn không xuất hiện trực tiếp. Nhờ đó, nguồn vốn được sử dụng tối ưu, đồng thời giúp doanh nghiệp giảm áp lực cạnh tranh từ đối thủ.
Những đặc điểm của ủy thác đầu tư
Ủy thác đầu tư đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Tại Việt Nam, các ngân hàng cũng đã triển khai các gói ủy thác đầu tư phù hợp cho nhiều đối tượng khách hàng.
Mỗi hình thức ủy thác sẽ mang lại cho nhà đầu tư tỷ lệ lợi nhuận và rủi ro khác nhau. Lợi nhuận thu về càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại. Chính vì thế, bạn phải cân nhắc đến mục đích đầu tư để lựa chọn hình thức ủy thác phù hợp.
Định nghĩa về ủy thác đầu tư
Trên thực tế, nhiều người có nguồn tiền nhàn rỗi nhưng lại không có thời gian, kiến thức nên không muốn tự mình đầu tư. Do đó, hoạt động ủy thác đầu tư đã ra đời, giúp cho các nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro và tăng tỷ lệ sinh lời trên nguồn vốn sẵn có.
Ủy thác đầu tư là việc nhà đầu tư (bên ủy thác) bàn giao tiền cho một tổ chức, doanh nghiệp (bên nhận ủy thác) để thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm mục đích sinh lời. Dựa trên thỏa thuận giữa hai bên, bên nhận ủy thác thay mặt cho bên ủy thác thực hiện các hoạt động kinh tế và chịu mọi rủi ro.
Bên nhận ủy thác sẽ có trách nhiệm sử dụng số tiền của bên ủy thác một cách hiệu quả nhất để thu được lợi nhuận cao. Hoạt động ủy thác này được thực hiện thông qua việc ký kết hợp đồng và được quản lý, kiểm soát theo quy định của pháp luật.
Những kênh đầu tư phổ biến được sử dụng trong hoạt động ủy thác đầu tư bao gồm chứng khoán, bất động sản, tiền điện tử,...
Ủy thác đầu tư mang lại nguồn thu nhập ổn định cho nhà đầu tư
Kinh doanh đại lý lữ hành là gì?
Theo quy định tại Điều 40 Luật Du lịch 2017, kinh doanh đại lý lữ hành được định nghĩa là hoạt động mà tổ chức hoặc cá nhân nhận bán các chương trình du lịch của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành cho khách du lịch và được hưởng hoa hồng từ việc này.
Các tổ chức, cá nhân kinh doanh đại lý lữ hành phải đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và có hợp đồng đại lý với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành.
Nếu khách du lịch mua chương trình du lịch thông qua đại lý lữ hành thì hợp đồng lữ hành được giao kết giữa khách du lịch và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành giao đại lý; trong hợp đồng phải ghi tên, địa chỉ của đại lý lữ hành.
Ưu, nhược điểm của ủy thác mua bán hàng hóa:
Trên thực tế, hoạt động ủy thác thể hiện ở rất nhiều ưu điểm như:
Người nhận ủy thác thường hiểu rõ và nắm bắt đầy đủ thông tin thị trường, am hiểu pháp luật và tập quán địa phương, do đó có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán, phòng tránh hoặc giảm thiểu rủi ro cho người khác. Điều này đặc biệt có lợi đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp mới thành lập và hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta. Khi một doanh nghiệp muốn thâm nhập và thị trường nước ngoài, nhất là những thị trường mới mà không am hiểu về pháp luật và tập quán thương mại ở nước đó, đồng thời cũng không có khả năng tự tìm hàng tiêu thụ sản phẩm thì việc sử dụng dịch vụ thương mại qua trung gian, đặc biệt là hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa sẽ có vai trò quan trọng, khắc phục được những hạn chế trên.
Bên cạnh đó, hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa góp phần phát triển nền kinh tế đất nước, tăng thu ngân sách. Trong hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu là lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt. Hoạt động xuất nhập khẩu muốn được đẩy mạnh phải tìm được đầu mối xuất nhập khẩu, tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Dịch vụ ủy thác đã góp phần không nhỏ đối với những doanh nghiệp không đủ điều kiện trực tiếp xuất nhập khẩu, không tìm được đầu mối để xuất nhập khẩu.
Nhờ vào dịch vụ ủy thác trong việc lựa chọn, phân loại đóng gói, người ủy thác có thể giảm bớt chi phí vận tải. Người nhận ủy thác thường có sẵn cơ sở vật chất, khi sử dụng dịch vụ này, người ủy thác đỡ được khoản đầu tư đáng kể so với trường hợp nhà sản xuất, kinh doanh tự mình tổ chức phân phối hàng, tự tìm bạn hàng, ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng.
Và các nhà kinh doanh có thể tổ chức một hệ thống rộng rãi các trung gian tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ do tiết kiệm được chi phí khi sử dụng dịch vụ ủy thác. Người ủy thác có thể mở rộng thêm thị trường, dần dần hình thành mạng lưới buôn bán để chiếm lĩnh thị trường.
Bên cạnh các ưu điểm, thì hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa cũng có những nhược điểm như:
Khi thực hiện hoạt động thương mại được thực hiện thông qua người trung gian, người sử dụng dịch vụ trung gian thương mại sẽ có nguy cơ bị mất mối liên hệ trực tiếp với thị trường và đối tác.
Thứ hai, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của người ủy thác bị chia sẻ do họ phải trả một khoản tiền thu lao khi sử dụng dịch vụ ủy thác của người nhận ủy thác.
Và người ủy thác luôn ở thế bị động trong việc tiếp cận thị trường và đối thác, họ phụ thuộc vào người nhận ủy thác. Nếu người nhận ủy thác làm việc kém hiệu quả, không thành công hay gian lận, thiếu trách nhiệm gây thiệt hại, tổn thất, bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh… thì người ủy thác sẽ phải chịu trách nhiệm.
Tại Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:
“1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.”
Từ đó có thể thấy quan hệ đại diện phát sinh từ các căn cứ đó chính là:
– Đại diện theo pháp luật thì bao gồm đại diện theo quy định của pháp luật và theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
– Đại diện theo ủy quyền theo sự thỏa thuận của các bên.
Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự thỏa thuận của các bên. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự do xác lập, thực hiện, định đoạt các hành vi không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội để phục vụ cho nhu cầu, sở thích của mình, quyền và lợi ích của người khác. Khi bên ủy quyền và bên được ủy quyền xác lập một quan hệ ủy quyền, tức là đã xác lập sự thỏa thuận giữa các bên (có thể có thù lao hoặc không có thù lao). Theo đó bên được ủy quyền được thay mặt và nhân danh bên ủy quyền thực hiện một số hành vi nhất định trong phạm vi ủy quyền, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến quyền lợi của các bên ủy quyền hoặc của bên thứ ba liên quan. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Như vậy, có thể hiểu ủy quyền là việc một bên (được gọi là bên được ủy quyền) nhân danh một bên khác (được gọi là bên ủy quyền) để xác lập, thực hiện các giao dịch.
Ủy quyền làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại, thứ nhất đó là quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền và thứ hai, đó là quan hệ giữa người ủy quyền người thứ ba.
Người được ủy quyền lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh (đại diện) người ủy quyền chứ không phải nhân danh chính họ.
Mục đích người được ủy quyền xác lập quan hệ với người thứ ba là vì lợi ích của người ủy quyền, hiểu theo cách khác đó là quyền (lợi ích và nghĩa vụ trong quan hệ với người thứ ba là quyền và nghĩa vụ của người ủy quyền.
Ủy quyền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận. Khác với quan hệ đại diện theo pháp luật là loại đại diện bắt buộc và phải có người cho người được đại diện, thì ủy quyền là hình thức đại diện được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa hai bên, có sự thống nhất ý chí giữa người ủy quyền và người được ủy quyền.
Quyền và nghĩa vụ của người được ủy quyền tùy thuộc vào nội dung ủy quyền (phạm vi ủy quyền). Người ủy quyền có thể ủy quyền cho người được ủy quyền có toàn quyền thực hiện công việc của mình hoặc chỉ được thực hiện một phần công việc. Người nhận ủy quyền cũng có toàn quyền thực hiện công việc hoặc chỉ là một phần quyền là do phạm vi ủy quyền thỏa thuận, cùng với nó sẽ xác định quyền và nghĩa vụ của người được ủy quyền.