Marketing thương mại (tiếng Anh: Trade Marketing) là quá trình tổ chức, quản lí và điều khiển các hoạt động nhằm tạo ra khả năng và đạt được mục tiêu tiêu thụ có hiệu quả nhất sản phẩm của một tổ chức.
Cấm vận thương mại đối với chính phủ của các quốc gia
Mục tiêu của lệnh cấm vận thương mại là gây áp lực lên các chính phủ khác bằng cách cấm xuất khẩu và nhập khẩu từ các quốc gia đó. Các lệnh cấm vận thương mại thường được viện dẫn để chống lại các quốc gia thể hiện mối đe dọa đối với các quốc gia khác hoặc với chính người dân của họ.
Một trong những ví dụ đáng chú ý nhất của lệnh cấm vận này là lệnh cấm vận thương mại Cuba của Mỹ. Chính phủ Mỹ không đồng ý với chính phủ Cuba và do đó đã cắt đứt quan hệ với Cuba, từ đó các công ty của Mỹ giao dịch với Cuba là bất hợp pháp. Với mục đích là việc thiếu đi quan hệ thương mại sẽ làm tổn thương nền kinh tế Cuba và sẽ buộc chính phủ Cuba phải tuân thủ chính phủ Mỹ.
Tuy nhiên, đây không phải là hình thức cấm vận duy nhất. Các quốc gia thường tham gia vào các lệnh cấm vận chiến lược nhằm hạn chế việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ quân sự sang các quốc gia khác.
Điều này là phổ biến đối với các nước phát triển hỗ trợ một số quốc gia buôn bán vũ khí và quân sự và không hỗ trợ các nước khác. Điều này đúng trong trường hợp của Iran. Chính phủ Mỹ không cung cấp hỗ trợ quân sự cho Iran, nhưng Nga thì có.
Cán cân thương mại (Balance of Trade)
Cán cân thương mại trong tiếng Anh là Balance of Trade. Cán cân thương mại phản ánh sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Cán cân thương mại được thể hiện bằng xuất khẩu ròng (Net Exports)
NX (Net exports): xuất khẩu ròng
Hàm xuất khẩu theo sản lượng: X = f(Y) phản ánh lượng tiền mà nước ngoài dự kiến mua sắm hàng hóa và dịch vụ trong nước, tương ứng với từng mức sản lượng (trong nước) khác nhau.
Như vậy, nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người nước ngoài, có nghĩa là chủ yếu không liên quan đến thu nhập và sản lượng của nền kinh tế trong nước.
Do vậy, chúng ta có thể coi nhu cầu xuất khẩu là độc lập, không phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập trong nước.
Hàm nhập khẩu theo sản lượng: IM = f(Y) phản ánh lượng tiền mà người trong nước dự kiến mua sắm hàng hóa và dịch vụ nước ngoài, tương ứng với mức sản lượng (trong nước) khác nhau.
Nhu cầu nhập khẩu từ bên ngoài có thể là nguyên vật liệu cho sản xuất hàng tiêu dùng của nhân dân...
Như vậy, nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng và thu nhập của nước nhập khẩu.
Hàm nhập khẩu là một hàm của thu nhập:
MPM (Marginal Propensity to Import) là xu hướng nhập khẩu biên. Nó cho biết khi thu nhập tăng lên một đơn vị thì công dân trong nước muốn chi thêm cho hàng nhập khẩu là bao nhiêu. Nói cách khác: MPM = ΔIM / ΔY
Nguồn: Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Tài chính
Cán cân thương mại của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba tình huống: thặng dư, thâm hụt và cân bằng.
Hình 3.14 cho biết: nếu nền kinh tế tạo ra sản lượng tại điểm Y1 thì cán cân thương mại thặng dư (X > IM), tạo ra sản lượng Y0 thì cán cân thương mại cân bằng và tại mức sản lượng là Y2 thì cán cân thương mại thâm hụt.
Như vậy, khi mức xuất khẩu và nhập khẩu không thay đổi thì trong trường hợp sản lượng quốc gia có xu hướng tăng lên, cán cân thương mại sẽ có khuynh hướng thâm hụt cao.
Điều này có nghĩa là trong quá trình phát triển kinh tế, cần phải dịch chuyển đường xuất khẩu lên phía trên thì gia tăng sản lượng sẽ làm giảm thâm hụt thương mại.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Tài chính)
Thương mại song phương (tiếng Anh: Bilateral Trade) là việc trao đổi hàng hóa giữa hai quốc gia xúc tiến thương mại và đầu tư.
Thương mại song phương trong tiếng Anh là Bilateral Trade.
Thương mại song phương là việc trao đổi hàng hóa giữa hai quốc gia xúc tiến thương mại và đầu tư.
Hai nước sẽ được hưởng giảm hoặc loại bỏ thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu và các rào cản thương mại khác để khuyến khích thương mại và đầu tư.
Ví dụ về Thương mại song phương
Vào tháng 3 năm 2016, chính phủ Mỹ và chính phủ Peru đã đạt được thỏa thuận thương mại song phương xóa bỏ rào cản đối với xuất khẩu thịt bò của Mỹ sang Peru có hiệu lực từ năm 2003.
Thỏa thuận này đã tạo ra một trong những thị trường tăng trưởng nhanh nhất ở khu vực Mỹ Latinh. Năm 2015, Mỹ đã xuất khẩu 25,4 triệu USD sản phẩm thịt bò và thịt bò sang Peru. Xóa bỏ các yêu cầu chứng nhận của Peru, được gọi là chương trình xác minh xuất khẩu, đã giúp các chủ trang trại Mỹ mở rộng tiếp cận thị trường của Peru.
Mỹ và Peru đã đồng ý sửa đổi trong tuyên bố chứng nhận sản xuất thịt bò và các sản phẩm thịt bò từ các cơ sở được liên bang của Mỹ chứng nhận đủ điều kiện xuất khẩu sang Peru, thay vì chỉ các sản phẩm thịt bò và thịt bò từ các cơ sở tham gia chương trình Xác minh Xuất khẩu Nông nghiệp USDA (AMS).
Du lịch thương mại công bằng (tiếng Anh: Fair trade tourism) là một trong những phương pháp tiếp cận du lịch giảm nghèo.
Hình minh họa (Nguồn: maropeng)
Du lịch thương mại công bằng trong tiếng Anh gọi là: Fair trade tourism.
Du lịch thương mại công bằng là một phương pháp tiếp cận du lịch giảm nghèo nhằm đảm bảo rằng người dân có đất đai, tài nguyên, sức lao động, kiến thức và văn hóa sử dụng cho các hoạt động du lịch được hưởng lợi thực sự từ các hoạt động đó.
(Tài liệu tham khảo: Bộ công cụ Hướng dẫn Giảm nghèo thông qua Du lịch, Tổ chức Lao động Quốc tế - ILO, bản dịch tiếng Việt thuộc về Dự án “Chương trình Phát triển Năng lực Du lịch có Trách nhiệm với Môi trường và Xã hội)
Du lịch thương mại công bằng là một khía cạnh quan trọng của du lịch bền vững. Du lịch thương mại công bằng nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích từ du lịch cho các bên liên quan đến điểm đến địa phương thông qua quan hệ đối tác cùng có lợi và công bằng giữa các bên liên quan du lịch quốc gia và quốc tế với điểm đến.
Nó cũng hỗ trợ quyền của các cộng đồng chủ nhà bản địa, dù có tham gia vào du lịch hay không, được tham gia với tư cách là các bên liên quan và là người hưởng lợi như nhau trong quá trình phát triển du lịch.
Du lịch thương mại công bằng ưu tiên các nhóm và bộ phận của cộng đồng chủ nhà tại các điểm đến, những nhóm người mà:
- Trước đây chưa có tiếng nói trong quá trình đưa ra quyết định về du lịch
- Về mặt kinh tế và xã hội gặp bất lợi hoặc bị phân biệt đối xử, đặc biệt trong quá trình phát triển du lịch hiện nay hay trong kế hoạch phát triển du lịch
- Có liên quan đến các sáng kiến liên kết du lịch mới nổi
- Sẵn sàng tham gia vào thị trường quốc gia/quốc tế nhưng cần sự hỗ trợ về kĩ thuật và của các tổ chức cần thiết để thành công
- Làm việc trong ngành du lịch trong các bộ phận chính thức và /hoặc không chính thức.
Du lịch thương mại công bằng có thể được mô tả như sau:
- Là một quá trình phát triển tích hợp tại điểm đến trong khuôn khổ hợp tác xã hội công cộng/tư nhân và dân sự
- Là một bộ qui tắc đạo đức doanh nghiệp và/hoặc thỏa thuận hợp tác thương mại
- Là một sản phẩm thương mại công bằng, được giám sát và chứng nhận
(Tài liệu tham khảo: Tourism Concern)
Bản chất của Marketing thương mại
Mục tiêu của marketing thương mại cuối cùng vẫn phải là đảm bảo lợi nhuận có thể có của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình kinh doanh trên thị trường.
Nhưng, mục tiêu trực tiếp của marketing thương mại có thể được xác định là tạo ra những cơ hội lớn nhất để tiêu thụ được tốt nhất các sản phẩm của doanh nghiệp mà qua đó mới có thể đạt đến mục tiêu lợi nhuận.
Kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường phải chấp nhận rủi ro. Khả năng không tiêu thụ (bán) được sản phẩm luôn luôn xảy ra và thông thường là rất lớn.
Doanh nghiệp có thể gặp may ở từng thương vụ, nhưng xét trong tổng thể - nhu thực tiễn đã chứng minh – hiểm hoạ phá sản luôn xuất hiện khi mà "bán hàng là một bước nhảy nguy hiểm chết người".
Marketing thương mại được nghiên cứu và phát triển là để nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thương mại.
Người ta đã từng đưa ra và ứng dụng nhiều cách thức khác nhau để thúc đẩy và hoàn thiện hoạt động thương mại. Nhưng, trước khi có hệ thống lí thuyết marketing thương mại, các cách thức đó chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn kinh doanh.
Thực chất của marketing thương mại là xác định lại cho phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế hiện đại vị trí của nhà kinh doanh và khách hàng trong hoạt động kinh tế.
Từ đó, sử dụng một cách đồng bộ và khoa học quan điểm lí thuyết hiện đại về tổ chức và quản trị kinh doanh trong quá trình tiếp cận và chinh phục khách hàng để tiêu thụ sản phẩm.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Marketing thương mại, Chủ biên PGS. TS. Nguyễn Xuân Quang, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007)
Cấm vận thương mại (tiếng Anh: Trade Embargo) là biện pháp cấm hoàn toàn quan hệ thương mại (xuất, nhập khẩu) đối với một quốc gia nào đó.