Từ việc học vẽ giải khuây, đến nay việc vẽ tranh như cách giúp Trung Khang nạp năng lượng - Ảnh: C.TR.
Thẩm quyền quyết định việc gọi công dân nhập ngũ năm 2024
- Thủ tướng Chính phủ quyết định thời gian, số lượng gọi công dân nhập ngũ đối với tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh); quyết định gọi công dân nhập ngũ lần thứ hai; quyết định điều chỉnh số lượng, thời gian gọi công dân nhập ngũ đối với cấp tỉnh theo quy định tại Điều 33 Luật Nghĩa vụ quân sự 2015.
- Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định số lượng gọi công dân nhập ngũ cho đơn vị thuộc quyền ở từng địa phương cấp tỉnh.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giao số lượng gọi công dân nhập ngũ cho địa phương cấp huyện.
- Chỉ huy trưởng cơ quan quân sự cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc giao số lượng gọi công dân nhập ngũ cho địa phương cấp huyện, cấp xã; chỉ đạo tuyển chọn công dân nhập ngũ.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định giao số lượng gọi công dân nhập ngũ cho địa phương cấp xã; quyết định danh sách công dân gọi nhập ngũ theo đề nghị của Hội đồng nghĩa vụ quân sự cùng cấp.
- Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự cấp huyện ra lệnh gọi từng công dân nhập ngũ. Lệnh gọi nhập ngũ phải được giao cho công dân trước thời gian ghi trong lệnh 15 ngày.
Căn cứ: Điều 34 Luật Nghĩa vụ quân sự 2015
Khi nào đi nghĩa vụ quân sự 2024?
Căn cứ quy định tại Luật Nghĩa vụ quân sự 2015 thì nhập ngũ (hay đi nghĩa vụ quân sự) là việc công dân vào phục vụ có thời hạn trong lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân và lực lượng Cảnh sát biển.
Theo Điều 33 Luật Nghĩa vụ quân sự 2015 thì hằng năm, gọi công dân nhập ngũ một lần vào tháng hai hoặc tháng ba; trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh thì được gọi công dân nhập ngũ lần thứ hai.
Đối với địa phương có thảm họa hoặc dịch bệnh nguy hiểm thì được điều chỉnh thời gian gọi nhập ngũ.
Như vậy, căn cứ quy định nêu trên thì có thể xác định thời gian gọi công dân đi nghĩa vụ quân sự năm 2024 sẽ diễn ra vào khoảng tháng 2/2024 hoặc tháng 3/2024.
Nghĩa vụ quân sự 2024: Khi nào đi? Đi mấy năm? Khi nào không phải đi? (Hình từ internet)
Nghĩa vụ quân sự 2024 đi mấy năm?
Căn cứ quy định tại Điều 21 Luật Nghĩa vụ quân sự 2015 thì thời hạn phục vụ tại ngũ trong thời bình của hạ sĩ quan, binh sĩ là 24 tháng.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng được quyết định kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan, binh sĩ nhưng không quá 06 tháng trong trường hợp sau đây:
- Để bảo đảm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu;
- Đang thực hiện nhiệm vụ phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn.
Thời hạn phục vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ trong tình trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp về quốc phòng được thực hiện theo lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ.
Thời gian phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan, binh sĩ được tính từ ngày giao, nhận quân; trong trường hợp không giao, nhận quân tập trung thì tính từ ngày đơn vị Quân đội nhân dân tiếp nhận đến khi được cấp có thẩm quyền quyết định xuất ngũ.
Thời gian đào ngũ, thời gian chấp hành hình phạt tù tại trại giam không được tính vào thời gian phục vụ tại ngũ.
Ngày càng nhiều người trẻ đi học vẽ
Anh Phước Nguyên - giáo viên đứng lớp của một phòng dạy vẽ tự do tại quận 3 (TP.HCM) - chia sẻ xu hướng người trẻ tìm đến các lớp học vẽ đã tăng từ giữa thời điểm đại dịch COVID-19 ập tới và càng đột biến hơn trong thời gian hậu COVID-19.
Trước đó, học phí cho một khóa học từ 1 - 3 tháng hoặc kéo dài đến 6 tháng cho mỗi học viên sẽ có giá dao động từ 2 - 7 triệu đồng/khóa.
Tuy nhiên, khi số lượng học viên các lớp tăng lên, anh Nguyên đã chủ động giảm học phí mềm hơn.
"Việc bố mẹ cho con nhỏ đi học vẽ là rất bình thường. Nhưng hiện nay học viên chiếm số đông trong các lớp học của chúng tôi lại là các bạn trẻ hoặc những người ngoài 40", anh Nguyên nói.
(Kiến Thức) – Trong số Thập vị quan Hoàng, Thánh ông Hoàng Mười là một trong những vị tồn tại nhiều dị bản về thân thế.
Trong số Thập vị quan Hoàng, Thánh ông Hoàng Mười là một trong những vị tồn tại nhiều dị bản về thân thế. Nhưng khác với truyền thuyết về ông Hoàng Bảy, Thánh ông Hoàng Mười được gắn với các nhân vật có thật trong sử sách. Tuy nhiên, đáng tiếc là đến nay, giới nghiên cứu vẫn chưa thể bóc tách từng giả thuyết để trả lời cho câu hỏi. Ông Hoàng Mười là ai?
Một số câu chuyện ghi lại rằng: Thánh ông Hoàng Mười là con của Đức vua cha Bát Hải Động Đình đầu thai thành vị tướng tên Lê Khôi dưới triều Lê, giúp Lê Lợi đánh tan giặc Minh. Khi đất nước thái bình, theo lệnh vua cha, ông hóa thân về trời. Từ đó, người dân vùng Nghệ An gọi ông là “Đức thánh minh”, lập nên đền thờ để hậu thế đời đời tưởng nhớ.
Trong sách “Đạo mẫu Việt Nam”, GS Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nhà nghiên cứu Phạm Văn Khiêm cũng đã liệt kê được trên 80 câu thơ về nhân vật lịch sử này. Đây cũng đồng thời là bài hát khi hầu giá ông Hoàng Mười. Điểm đặc biệt trong nội dung lời hầu giá, đó chính lai lịch, sở thích của vị tướng quân có công giết giặc giữ nước trùng với giả thuyết cho rằng, ông Hoàng Mười thực ra là vị tướng Lê Khôi.
Lời hầu giá rằng: “Cánh hồng thấp thoáng trăng thanh/ Nghệ An có đức thánh minh ra đời (Hoàng Mười)/ Gươm thiêng chống đất chỉ trời/ Đánh Đông dẹp Bắc việc ngoài binh nhung/ Thanh xuân một đấng anh hùng/ Tài danh nổi tiếng khắp vùng trời Nam”… Nội dung bài hầu giá ngoài việc ca ngợi vị tướng Lê Khôi, tức đức thánh minh không chỉ có tài kiếm cung, thao lược mà ông cũng rất phong lưu, đào hoa. Khi rảnh rỗi, ông thường cưỡi ngựa đi ngắm cảnh, làm thơ, bên cạnh lúc nào cũng năm, ba thiếu nữ theo hầu…
Lời hát khi hầu giá ông Hoàng Mười mà Nhà nghiên cứu Phạm Văn Khiêm đưa vào sách “Đạo Mẫu Việt Nam” chỉ là một trong số nhiều bài hát hầu giá khác cùng tồn tại. Điều đó nói lên sự phức tạp và có nhiều dị bản khác nhau về ông Hoàng Mười.
Giả thuyết thứ hai cho rằng rằng: Ông Hoàng Mười chính là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, con trai của Lý Công Uẩn, cai quản châu Nghệ An. Tuy nhiên, cho đến nay giới nghiên cứu vẫn chưa tìm ra tư liệu hay bằng chứng nào để chứng minh cho giả thuyết này. Nhưng dẫu sao thì truyền thuyết vẫn tồn tại trong một bộ phận dân chúng, người ta vẫn coi ông Hoàng Mười là con trai đức vua cha Bát Hải Động Đình và dĩ nhiên, trong bài hầu giá của mình, người ta vẫn coi ông là Uy Minh Vương Lý Nhật Quang.
Trong nhiều truyền thuyết về xuất thân Thánh ông Hoàng Mười, nhiều người nghiêng về giả thuyết, ông Hoàng Mười chính là Nguyễn Xí, sống ở thời Hậu Lê.
Nguyễn Xí xuất thân tại xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, Nghệ An ngày nay. Ông là bậc đại công thần, là võ tướng, chính trị gia lỗi lạc giúp Lê Lợi chiến đấu chống giặc Minh xâm lược. Nguyễn Xí là vị quan phò tá qua 4 đời vua Lê gồm. Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Hiến Tông và Lê Túc Tông. Đây là giai đoạn cực thịnh của nhà Lê. Sự hưng thịnh đã đi vào ca dao rằng: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông/ Lúa chất đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”, hay “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông/ Con bế, con dắt, con bồng, con mang”…
Sinh thời, Nguyễn Xí không chỉ là một bậc quan khai quốc công thần, tài hoa lỗi lạc mà ông còn giúp nhân dân xóa đói giảm nghèo. Sau khi đánh tan giặc Minh xâm lược, ông được Lê Lợi phân công cai quản đất Nghệ An, Hà Tĩnh. Tại đây, ông đã dạy dân trồng lúa nước, đắp đê ngăn lũ, thủy lợi nội đồng… Tương truyền, trong một lần gió lớn, mưa to, nhà cửa, cây cối của người dân bị bẻ sập, Nguyễn Xí đốc thúc quân lính và đích thân lên rừng đốn gỗ về dựng lại nhà cửa cho dân, sai người mở kho lương thực cứu tế kịp thời. Nhờ đó mà nhiều người đã thoát khỏi đói rét, chết chóc vì bão lũ… Vì vậy được dân chúng khắp nơi tôn sùng, coi như hiền thánh. Sự hưng thịnh của các đời vua Lê có dấu ấn quan trọng của Nguyễn Xí và bộ máy quan đại thần hạ triều.
Sự hóa thân từ bậc khai Quốc công thần đến Thánh Hoàng Mười cũng thật ly kỳ. Chuyện kể rằng: Một lần Nguyễn Xí dạo thuyền trên sông Lam, đoạn qua núi Hồng Lĩnh thì bỗng có đợt sóng to, gió lớn nổi lên, thuyền của ông bị thủy triều, phong ba cuốn đi mất. Dân chúng biết tin liền đến bên đôi bờ Lam giang mà tỏ lòng thương tiếc, người người khóc thương vị quan hết lòng vì dân. Đúng lúc đó, bầu trời đang cuồng phong bão táp bỗng tan biến, bầu trời nổi áng mây vàng, thi thể của ông nổi lên mặt nước, sắc mặt hồng hào như người nằm ngủ. Khi dạt vào bờ, đất xung quanh bỗng bao bọc lấy di quan. Cùng lúc, trên nền trời bỗng xuất hiện mây ngũ sắc, kết thành xích mã và thiên binh đưa ông về trời.
Sau khi ông mất, người dân Nghệ An lập đền thờ ông. Bách tính suy tôn ông là Thánh ông Hoàng Mười. Việc suy tôn này mang ý nghĩa ông là con của Đức vua cha Long Hải Đại Đình đầu thai vào Nguyễn Xí mà giúp dân dẹp giặc, xây dựng cuộc sống phồn vinh…
Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu văn hóa thì giả thuyết ông Hoàng Mười chính là Nguyễn Xí có sức nặng hơn cả. Bởi xét về lịch sử ngôi đền được xây dựng vào năm 1634, tức cùng thời của Nguyễn Xí. Hơn nữa, Nguyễn Xí lại là quan đại thần, là bậc khai Quốc công thần dưới thời Lê, có công phò vua đánh tan giặc Minh xâm lược, khi thiên hạ thái bình, ông lại cùng ăn, cùng ở với dân, giúp bách tính vượt qua khổ ải vươn đến phú quý, hưng thịnh. Xét trên công lao đó, dân chúng chí tôn ông là Thánh Hoàng Mười là điều hiển nhiên và cũng hợp với ý nguyện của muôn dân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh.
Trong số Thập vị Quan Hoàng, chỉ có Thánh ông Hoàng Mười và Thánh ông Hoàng Bảy là hay về ngự đồng. Khi ngự đồng, Thánh ông Hoàng Mười thường diện long phục, thêu chữ “thọ”, đầu đội khăn xếp, thắt dây vàng, trâm cài tóc màu vàng. Khi ngự đồng, có khi ông lấy quạt làm sách, lấy bút làm trâm, vừa đi vừa ngâm thơ hoặc giả động tác của dân lao động…