Trong thế kỷ 19-20 một phong trào kiến trúc giao thoa giữa Pháp – Việt đã dần được hình thành và phát triển, tên của nó trở thành tên của một vùng đất của kỷ niệm và của một thời đại, nền nghệ thuật, Đông Dương.
Phong cách kiến trúc Đông Dương là một phong cách kiến trúc kết hợp độc đáo giữa phương Đông và phương Tây, được giới nghiên cứu coi là phong cách kiến trúc thành công nhất ở Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc.
Tọa lạc tại số 1 Phạm Ngũ Lão, Hà Nội, tòa nhà Bảo tàng Louis Finot của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam) được coi là một trong những công trình tiêu biểu cho phong cách kiến trúc Đông Dương ở Việt Nam thời thuộc địa.
Đây là một phong cách kiến trúc kết hợp độc đáo giữa phương Đông và phương Tây do các kiến trúc sư người Pháp và sau đó là người Việt định hình từ thập niên 1920.
Kiến trúc theo phong cách Đông Dương là những công trình có cấu trúc mặt bằng, hình khối hoàn toàn theo kiểu Pháp thịnh hành lúc bấy giờ, nhưng đã có sự tìm tòi, biến đổi về mặt không gian và cấu tạo kiến trúc.
Các kiến trúc sư theo phong cách này thường sử dụng những hình thức và chi tiết kiến trúc truyền thống Việt Nam trong việc tạo nên các bộ mái, ô văng che cửa, cùng các họa tiết trang trí khác.
Nhìn chung đây là phong cách thành công nhất trong việc tạo ra những công trình kiến trúc đẹp, hiện đại, phù hợp với khí hậu, cảnh quan và văn hóa truyền thống bản địa thời kỳ Pháp thuộc.
Tại tòa nhà Bảo tàng Louis Finot, dấu ấn của kiến trúc phương Tây dễ nhận ra qua những khối nhà lớn có hai tầng, kết nối với nhau thành một chỉnh thể bề thế.
Trong khi đó, dấu ấn phương Đông được thể hiện qua từng chi tiết kiến trúc nhỏ như các họa tiết trang trí mái, cửa sổ, ban công…
Đặc biệt, dạng hình học bát giác được sử dụng rất phổ biến.
Đây là hình tượng gắn liền với khái niệm Bát quái trong văn hóa Đông Á.
Dấu ấn phương Đông này thể hiện rõ nét nhất trong sảnh chính của tòa nhà.
Đây là một khoảng không gian hình bát giác được định hình bằng các hàng trụ cột.
Sau nhiều thăng trầm của lịch sử, tòa nhà của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn và là một điểm đến thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước ở Hà Nội.
Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO – École française d’Extrême-Orient) là một tổ chức nghiên cứu hàng đầu về khảo cổ học, văn hóa, ngôn ngữ và lịch sử ở khu vực Đông Á, Đông Nam Á, và Nam Á.
Thành lập vào năm 1900 tại Hà Nội dưới thời Pháp thuộc, EFEO ban đầu tập trung vào việc nghiên cứu và bảo tồn các di sản văn hóa tại Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam, Campuchia, và Lào.
– Thành lập: Viện được thành lập bởi chính phủ Pháp với mục tiêu nghiên cứu các nền văn hóa ở Đông Dương. Tên gọi “Viễn Đông Bác Cổ” thể hiện rõ nhiệm vụ nghiên cứu văn hóa cổ đại của khu vực Viễn Đông. – Hoạt động tại Việt Nam: Tại Việt Nam, EFEO đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu và khai quật các di tích lịch sử quan trọng như khu đền tháp Mỹ Sơn, di tích Huế, và đặc biệt là việc bảo tồn Kinh thành Huế. – Ảnh hưởng toàn cầu: Ngoài Việt Nam, EFEO còn có ảnh hưởng sâu rộng ở các nước khác trong khu vực như Campuchia, nơi họ đóng góp vào việc bảo tồn Angkor Wat.
– Ngôn ngữ và văn học: EFEO nổi tiếng với những nghiên cứu về ngôn ngữ và văn học cổ đại, bao gồm việc phiên dịch và biên soạn các văn bản cổ. – Khảo cổ học: Tổ chức đã tiến hành nhiều cuộc khảo cổ quan trọng tại các di tích lịch sử, giúp bảo tồn và hiểu rõ hơn về các nền văn hóa cổ xưa. – Xuất bản: Viện cũng là nơi xuất bản nhiều công trình nghiên cứu, bao gồm các tập san khoa học và sách chuyên khảo.
EFEO không chỉ có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn di sản văn hóa Đông Dương mà còn góp phần mở rộng kiến thức toàn cầu về các nền văn hóa ở châu Á. Các nghiên cứu và phát hiện của Viện đã đóng góp to lớn vào việc hiểu biết về lịch sử và văn hóa của khu vực, đồng thời nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản văn hóa.
Ngày nay, EFEO tiếp tục hoạt động với các chi nhánh trên khắp châu Á và vẫn duy trì sự ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực nghiên cứu nhân văn.
Về tên gọi kiến trúc phong cách Đông Dương
Một cách phổ biến, chúng ta thường gộp chung kiến trúc xây dựng, trang trí theo phong cách Đông Dương và kiến trúc được xây dựng tại bán đảo Đông Dương (bao gồm Việt Nam, Lào và Campuchia). Đây là hai khái niệm tuy riêng biệt nhưng bao hàm nhau tùy theo ngữ cảnh. Kiến trúc được xây dựng tại Đông Dương bao hàm một tập hợp rộng các công trình thuộc nhiều phong cách được xây dựng trải dài theo thời gian, từ khi người Pháp có mặt đến khi họ rời khỏi khu vực Đông Dương. Còn phong cách Đông Dương chỉ một tập hợp nhỏ hơn với những chủ ý và đặc điểm riêng biệt, song cũng kế thừa nhiều đặc điểm kỹ thuật của kiến trúc xây dựng ở Đông Dương.
Phong cách kiến trúc Đông Dương tuy chỉ được thực hành tập trung trong vài thập kỷ từ thập niên 1920 đến những năm đầu thập niên 1950, nhưng đã để lại dấu mốc đáng lưu ý trong giai đoạn thịnh kỳ của kiến trúc dân sự thời kỳ thuộc địa, đồng thời trở thành tiền đề cho kiến trúc theo trào lưu Hiện đại Nhiệt đới miền Nam Việt Nam về sau. Phong cách Đông Dương cho thấy các kiến trúc sư người Pháp đã có chủ ý tôn trọng văn hóa bản địa trong hoạt động xây dựng đô thị.
Bảo tàng Blanchard de la Brosse sau đổi thành Viện Bảo tàng quốc gia Việt Nam và nay là Bảo tàng Lịch sử TP.HCM. Ảnh: Tư liệu
Các bản vẽ kiến trúc Bảo tàng Blanchard de la Brosse, lập bởi KTS De Laval vào tháng 3/1926. Ảnh: Tư liệu
Các nghiên cứu thường đồng tình với nhau rằng công trình đầu tiên thể hiện rõ phong cách Đông Dương là tòa nhà chính của Đại học Đông Dương (Université Indochinois) khởi công từ năm 1923. Ban đầu tòa nhà này vốn không mang thiết kế như hiện tại. Từ khi KTS Ernest Hébrard được mời về làm việc tại Đông Dương, ông bắt đầu đặt vấn đề về việc làm cho kiến trúc dân dụng của người Pháp tại thuộc địa trở nên gần gũi và có kết nối hơn với văn hóa địa phương. Hébrard tiến hành chỉnh sửa thiết kế của tòa nhà với một mức độ trang trí ông cho là vừa đủ và tránh sự sao chép tối nghĩa của họa tiết bản địa. Từ dấu mốc này, Hébrard dẫn dắt các KTS hành nghề tại Đông Dương đi theo đường lối thực hành một phong cách kiến trúc mới mẻ đầy cảm hứng, dẫn đến thành công của những KTS như Auguste Delaval, Felix Dumail, Arthur Kruze… với hàng loạt các kiến trúc mang dấu ấn văn hóa địa phương thuộc nhiều quy mô khác nhau và nhận được đánh giá tích cực cả đương thời và ngày nay.
Nếu chúng ta mở rộng việc xem xét ra khỏi giai đoạn chính quyền dân sự ở Đông Dương đang trong thời kỳ ổn định, cân bằng về ngân sách và nguồn lực, thì hơn nửa thế kỷ trước đó, những nhà truyền giáo châu Âu đến xứ An Nam đã tạo ra những thể nghiệm đáng chú ý. Khi nhìn nhận lại, chúng ta thấy nỗ lực của họ có thể được xem là manh nha của dòng kiến trúc phong cách Đông Dương. Những ngôi thánh đường và nhà nguyện của các giáo họ khu vực Đồng bằng Bắc Bộ hình thành từ những năm đầu của thế kỷ 19 thường được mô tả là “những ngôi nhà An Nam kéo dài”, bởi họ tận dụng bộ khung nhà, cấu kiện kiến trúc và trang trí của Việt Nam có tính chất tương tự như trong kiến trúc phương Tây để nhanh chóng dựng nên ngôi nhà của Chúa. Hoạt động truyền giáo của họ đạt được thành công một phần nhờ vào nỗ lực tạo ra những công trình tôn giáo kết hợp kiến trúc bản địa, dẫn dắt giáo dân địa phương trong những trải nghiệm kiến trúc thân thuộc.
Đền kỷ niệm, Thảo Cầm Viên Sài Gòn, nay là Đền Hùng. Ảnh chụp trong thập niên 1920. Ảnh: Tư liệu
Tòa nhà chính Đại học Đông Dương – Ảnh chụp những năm 1920. Ảnh: Tư liệu
Tòa nhà chính viện Pasteur Hà Nội. Ảnh chụp trong thập niên 1920. Ảnh: Tư liệu
Theo nhận định của người viết, có thể phân chia đặc điểm của kiến trúc phong cách Đông Dương thành ba giai đoạn: Trước những năm 1920; những năm 1920-1940; sau 1940. – Giai đoạn trước những năm 1920 là thời kỳ manh nha và tìm kiếm về một hình thức kiến trúc có thể thích ứng được cả khí hậu và văn hóa bản địa. Trong giai đoạn này, những người xây dựng thường sao chép nguyên mẫu hay ứng dụng tùy tiện họa tiết trang trí bản địa để đặt vào kiến trúc và nội thất mà không lưu ý đến sự hài hòa. Kết quả là kiến trúc có khi lạ lùng mới mẻ, khi lại rất thô kệch, là một sự đan xen không đi đến mục đích hòa hợp. Các công trình từ giai đoạn này không còn lưu lại nhiều, chủ yếu chỉ có thể khảo sát thông qua ảnh tư liệu xưa. – Giai đoạn những năm 1920-1940 đánh dấu một thời đại huy hoàng khi các KTS thể hiện sự sáng tạo không ngừng và khéo léo ứng dụng họa tiết bản địa một cách có hệ thống, khởi đầu bằng sự dè dặt sau đạt tới sự tự tin. Các công trình được xây dựng bằng kỹ thuật cải tiến theo tỷ lệ phương Tây, kết hợp với gờ chỉ hay mảng phù điêu/điêu khắc bản địa lấy cảm hứng từ văn hóa ba nước Đông Dương. Các mô-típ trang trí được thống nhất từ ngoài vào trong và đạt được sự thanh nhã, hài hòa. Các công trình tiêu biểu bao gồm: Đại học Đông Dương (nay là Đại học Tổng hợp Hà Nội), Sở Tài chính Đông Dương (nay là Trụ sở Bộ Ngoại giao), Viện Pasteur Hà Nội, Đền Tưởng niệm (nay là Đền Hùng trong Thảo Cầm Viên Sài Gòn), Bảo tàng Blanchard de la Brosse (nay là Bảo tàng Lịch sử TP.HCM)…
Bản vẽ và ảnh chụp các công trình kiến trúc phong cách Đông Dương tại Hà Nội gồm: Đại học Đông Dương (ĐH Tổng hợp Hà Nội), Bảo tàng Louis Finot (Bảo tàng Lịch sử Quốc gia), Sở Tài chính Đông Dương (Trụ sở Bộ Ngoại giao). Nguồn: TTLTQG I
– Giai đoạn sau 1940 là sự kế thừa của giai đoạn trước và đánh dấu sự xuất hiện chủ động của các kiến trúc sư người Việt. Với sự ra đời của trường Mỹ thuật Đông Dương những năm đầu thập niên 1920, nhiều KTS, họa sĩ người Việt đã được đào tạo có hệ thống. Họ tiếp nhận tinh hoa mỹ thuật Đông Dương đương thời từ sự hướng dẫn của các giáo sư người Pháp. Từ cuối những năm 1930, họ bắt đầu thực hành kiến trúc-mỹ thuật và cho ra đời dòng kiến trúc phong cách Đông Dương do chính người Việt chắp bút. Ở những năm đầu của giai đoạn này, có thể nhận ra phong cách Đông Dương được hòa hợp với bố cục tạo hình của kiến trúc địa phương và Hiện đại của người Pháp. Những đường nét hiện đại ngang bằng sổ thẳng kết hợp với mái ngói âm dương bản địa và sản phẩm gốm mỹ nghệ địa phương (như gốm Sài Gòn, gốm Biên Hòa) đã tạo nên một đặc trưng thú vị.
Trên thực tế không có nhiều kiến trúc tiếp tục theo đuổi hậu kỳ của phong cách Đông Dương, do đó hầu hết các thiết kế của giai đoạn này chỉ nằm lại trong các đồ án tốt nghiệp từ trường Mỹ thuật Đông Dương. Đến đầu thập niên 1950 rất khó tìm thấy một công sở xây dựng theo phong cách này, ngoại trừ đề án Dinh Độc Lập mới không được triển khai của KTS Hoàng Hùng và một số biệt thự ở vùng Sài Gòn-Chợ Lớn. Di sản quan trọng nhất mà thời kỳ này để lại là khởi đầu của kiến trúc Hiện Đại Nhiệt Đới miền Nam với sự kết hợp tinh thần dân tộc mạnh mẽ của một Việt Nam chuyển giao thời đại.
Một thể nghiệm kiến trúc-nội thất phong cách Đông Dương tại toà nhà gian triển lãm Đông Dương trong khuôn khổ Hội chợ Nghệ thuật và Trang trí diễn ra tại Paris năm 1931. Nguồn: Musée Albert Kahn
Phong cách kiến trúc Đông Dương cũng từng có thời thịnh đạt như một vũ hội rực rỡ bên bờ biển, cũng có lúc hạ tiệc và tắt những ngọn đèn của nó. Học và tìm hiểu về lịch sử của nghệ thuật, lịch sử của kiến trúc là học về mỗi thời kỳ nghệ thuật, chủ nghĩa đã sinh ra từ các yếu tố đan xen văn hóa và bức thiết thời đại ra sao, và cũng học về làm cách nào chúng hưng thịnh để rồi tan rã. Kiến trúc Đông Dương và toàn bộ cảm xúc thời đại, thẩm mỹ riêng tư của những ngày tháng đó đã ra đi êm đẹp xuôi theo lịch sử Pháp-Việt. Ngày nay đôi lúc chúng ta vẫn có thể bắt gặp lại những dư âm Đông Dương thoảng hoặc trên những bản vẽ hay công trình muốn hoài vọng quá khứ, đôi tác phẩm nghệ thuật muốn xuyên thấu lịch sử, các công trình khảo cứu dày dặn, hay một bài thơ và một bản nhạc. Có lẽ tâm tư các cuộc trùng ngộ Đông-Tây, Cũ-Mới sẽ còn được kể đâu đó đến ngày mai xa lắm, như người ta vẫn hay tương tư về một ánh mắt đã kịp gặp gỡ và nhảy cùng một điệu Valse chỉ diễn ra một lần trong mùa Hè đã thành ký ức vĩnh cửu, nơi những người tham gia/hay đúng hơn là những nền văn hóa sẽ không thể gặp gỡ lại nhau và múa cùng theo một cách nữa…
Không gian mang cảm hứng Indochine giữa Sài Gòn